Dấu hiệu chỉ điểm ung thư phổi di căn não
(Dân trí) - Ước tính, khoảng 40 đến 50% các trường hợp ung thư di căn não là từ ung thư phổi. Khi đó, triệu chứng của bệnh rất đa dạng.
Theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới, ung thư phổi bao gồm 2 nhóm khác nhau về đặc điểm giải phẫu, điều trị và tiên lượng. Đó là ung thư phổi không tế bào nhỏ và ung thư phổi tế bào nhỏ chiếm lần lượt 85% và 15%. Khoảng 16 đến 20% bệnh nhân ung thư phổi sẽ tiến triển di căn não, trong đó ung thư phổi tế bào nhỏ thường di căn mạnh và sớm hơn ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Khoảng 10% bệnh nhân mới được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến triển có di căn não. Khoảng 40 đến 50% các trường hợp ung thư di căn não là từ ung thư phổi.
Tỷ lệ di căn não cao hơn ở những bệnh nhân ung thư phổi có đột biến EGFR, chuyển vị ALK hoặc đột biến HER2, rơi vào khoảng 50-60%.
Theo bác sĩ Bệnh viện Phổi Trung ương (Hà Nội), triệu chứng lâm sàng của di căn não thường rất đa dạng do khối u phát triển dần kèm phù nề dẫn đến các triệu chứng thường gặp như đau đầu, co giật, động kinh, rối loạn chức năng thần kinh khu trú (chứng liệt nửa người nhẹ…), rối loạn chức năng nhận thức (gặp vấn đề về trí nhớ, tâm trạng, tính tình thay đổi…) và đột quỵ.
Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng có thể góp phần phản ánh vị trí, số lượng và sự tiến triển của các khối u di căn.
Nếu bạn được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi, điều đặc biệt quan trọng là phải chú ý đến các triệu chứng của di căn não, bao gồm:
- Giảm trí nhớ, sự chú ý và suy luận.
- Nhức đầu.
- Yếu đuối.
- Buồn nôn và ói mửa.
- Loạng choạng.
- Khó nói.
- Cảm giác ngứa ran.
- Co giật.
Nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào trong số này, hãy báo cho bác sĩ ngay lập tức.
Việc chẩn đoán di căn não dựa trên các triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân, thông qua thăm khám thần kinh và chẩn đoán hình ảnh. Chụp cộng hưởng từ (MRI) có cản quang là phương pháp ưu tiên được sử dụng để phát hiện các tổn thương ở bệnh nhân nghi ngờ có di căn não và để phân biệt di căn não với các tổn thương khác của hệ thần kinh trung ương.
MRI cũng cần được sử dụng trong việc lập kế hoặc điều trị và làm cơ sở để đánh giá đáp ứng điều trị. Ở những cơ sở chưa có MRI, CT có thể được sử dụng để đánh giá tổn thương di căn.
Đăng thảo luận